Nguồn cung thắt chặt kéo giá dầu tăng trở lại

Kết thúc phiên giao dịch đầu tuần ngày 26/2, giá dầu phục hồi trở lại trong bối cảnh nguồn cung vẫn còn đối diện với nhiều rủi ro gián đoạn

Năng lượng

Kết thúc phiên giao dịch đầu tuần ngày 26/2, giá dầu phục hồi trở lại trong bối cảnh nguồn cung vẫn còn đối diện với nhiều rủi ro gián đoạn, chủ yếu do các vấn đề về địa chính trị. Kết phiên, giá dầu WTI tăng 1,43% lên 77,58 USD/thùng. Dầu Brent tăng 1,08% lên 81,67 USD/thùng.

Mỹ đã áp đặt các lệnh trừng phạt đối với tập đoàn tàu chở dầu hàng đầu của Nga Sovcomflot, khi Washington tìm cách giảm doanh thu từ việc bán dầu của Nga, vốn phục vụ mục đích quân sự. Nga là nhà xuất khẩu dầu lớn thứ hai thế giới, và các lệnh trừng phạt này là nỗ lực mới nhất của phương Tây nhằm tăng thêm chi phí vận chuyển dầu thô và các sản phẩm dầu, trong khi vẫn duy trì dòng xăng dầu đến thị trường toàn cầu.

Văn phòng Kiểm soát Tài sản Nước ngoài của Bộ Tài chính (OFAC) cũng chỉ định 14 tàu chở dầu thô thuộc tài sản mà Sovcomflot có liên quan. Các biện pháp trừng phạt sẽ đóng băng bất kỳ tài sản nào của Mỹ đối với những đối tượng bị nhắm mục tiêu. Điều này làm gia tăng rủi ro gián đoạn nguồn cung thị trường, nhất là khi  tình hình Biển Đỏ chưa ổn định, từ đó hỗ trợ cho giá dầu.

Sự sụt giảm trong hoạt động lọc dầu của Mỹ và sự gián đoạn thương mại tại Biển Đỏ đã thắt chặt nguồn cung dầu diesel trong những tuần gần đây, làm giảm xuất khẩu dầu diesel của Mỹ sang châu Âu trong tháng này.

Giá dầu diesel của Mỹ đã nhanh chóng tăng lên mức cao nhất trong 4 tháng với hơn 48 USD/thùng, làm hạn chế cơ hội kinh doanh chênh lệch giá để vận chuyển nhiên liệu sang châu Âu.

Bộ Tư lệnh Trung ương Mỹ cho biết phiến quân Houthi liên kết với Iran ở Yemen đã suýt đánh trúng một tàu chở dầu mang cờ Mỹ vào thứ Bảy. Những hạn chế tại khu vực Biển Đỏ tiếp tục đe doạ nguồn cung dầu, góp phần thúc đẩy lực mua trên thị trường.

Ngân hàng Goldman Sachs cũng đã nâng mức dự báo giá dầu Brent đạt đỉnh vào mùa hè năm 2024 thêm 2 USD/thùng lên 87 USD/thùng do các gián đoạn hiện tại góp phần làm tồn kho thương mại của các nước OECD giảm nhẹ. Ngân hàng cũng kỳ vọng các nhà hoạch định chính sách của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và đồng minh (OPEC+) sẽ gia hạn cắt giảm sản lượng vào đầu tháng 3, để giữ cho thị trường ở mức thâm hụt vừa phải. Mức thâm hụt mà ngân hàng ước tính là 0,5 triệu thùng/ngày trong quý đầu tiên và 0,4 triệu thùng/ngày trong quý II năm nay.

Nông sản

Sắc xanh hoàn toàn chiếm thế áp đảo trên thị trường nông sản sau khi đóng cửa phiên giao dịch đầu tuần. Nhóm họ đậu diễn biến tương đối rung lắc kể từ ghi mở cửa, và kết phiên với mức biến động nhẹ, chưa tới 1%. Trong khi đó, giá ngô hồi phục mạnh từ mốc thấp nhất trong hơn 3 năm qua, và trở thành mặt hàng tăng mạnh nhất cả nhóm với mức hồi phục gần 2%.

Các số liệu khả quan từ báo cáo Export Inspections được công bố vào tối qua là yếu tố chính đã thúc đẩy lực mua đối với giá ngô. Cụ thể, USDA cho biết, khối lượng giao hàng ngô của Mỹ trong tuần 6 – 22/2 của Mỹ đạt 1,24 triệu tấn, tăng 18% so với tuần trước đó. Tính theo lũy kế từ đầu niên vụ, Mỹ đã giao được gần 19,5 triệu tấn ngô, tương đương 47,22% kế hoạch xuất khẩu, cao hơn đáng kể so với mức 22,91% cùng kỳ năm 2023. Những kết quả tích cực này cho thấy tình hình xuất khẩu ngô tại Mỹ vẫn duy trì diễn biến tương đối tốt trong thời gian qua.

Tương tư như ngô, lúa mì cũng ghi nhận mức tăng mạnh hơn 1% khi mà thị trường phản ứng với số liệu xuất khẩu tích cực của Mỹ. Cũng theo báo cáo, Mỹ đã giao được 481.999 tấn lúa mì trong tuần đánh giá, tăng gần 15% so với tuần trước đó. Con số này phản ánh nhu cầu quốc tế đối với lúa mì Mỹ đã có dấu hiệu hồi phục trở lại, và tác động “bullish” đến giá CBOT ngay sau thời điểm công bố báo cáo trong phiên tối.

Đối với đậu tương, giá hồi phục nhẹ 0,31% sau chuỗi 3 phiên liên tiếp suy yếu, trong bối cảnh triển vọng nguồn cung tại Brazil đón nhận tín hiệu kém khả quan. Hãng tư vấn AgRural tiếp tục hạ dự báo sản lượng đậu tương của nước này xuống 147,7 triệu tấn, từ mức 150,1 triệu tấn ước tính hồi tháng 1. Nguyên nhân là do thời tiết khô nóng trong tháng 1 và tháng 2 ảnh hưởng đáng kể đến năng suất ở các bang Parana và Mato Grosso do Sul.

Với triển vọng nguồn cung thấp hơn, một công ty tư vấn khác là Datagro cũng hạ dự báo xuất khẩu đậu tương năm 2024 của Brazil xuống còn 88,8 triệu tấn, giảm 12,8% so với năm trước. Điều này càng củng cố thêm lo ngại của thị trường về thiệt hại mùa vụ trong năm nay của Brazil, đồng thời hỗ trợ giá trong phiên vừa rồi.

Nguyên liệu công nghiệp

Khép lại phiên giao dịch 27/2, giá 2 mặt hàng cà phê giảm thêm lần lượt 0,39% đối với giá Arabica và 0,33% đối với giá Robusta. Thông tin cơ bản trái chiều trước sự suy yếu của đồng USD và tồn kho chứng nhận tiếp đà hồi phục đã khiến giá cà phê giằng co trong phiên.

Một mặt, chỉ số Dollar Index giảm 0,1% đã thúc đẩy dòng tiền dịch chuyển từ các tài sản trú ẩn sang các thị trường khác như chứng khoán hay hàng hóa. Điều này giúp thúc đẩy lực mua đối với giá mặt hàng cà phê.

Mặt khác, sức ép từ việc tồn kho tăng lên đã kéo giá giảm trở lại. Tồn kho Arabica đạt chuẩn trên Sở ICE-US sau phiên 23/2 tăng thêm 8.330 bao, lên 324.157 bao. Hơn thế, số cà phê chờ phân loại vẫn duy trì ở mức cao 127.421 bao, là tín hiệu tốt cho khả năng mở rộng sắp tới.

Với Robusta, tình hình xuất khẩu tích cực trong tháng 1 của Việt Nam vẫn là điểm tựa giúp giá hạ nhiệt, bất chấp dữ liệu tồn kho trên Sở ICE-EU quay đầu suy yếu sau 2 phiên tăng trước đó. Cụ thể, tồn kho Robusta trên sở ICE kết phiên 25/2 giảm 160 tấn, kéo tổng lượng cà phê lưu trữ tại đây xuống mức 22.840 tấn.

Giá bông tăng 1,40%, lấy lại những gì đã mất và cuối tuần trước, nhờ sự hỗ trợ của giá dầu thô WTI. Giá dầu thô tăng 1,43% trong phiên hôm qua, khiến cho Polyester, chất thay thế chính của bông trở nên đắt đỏ hơn. Với vai trò là sản phẩm thay thế, lực mua dần dịch chuyển sang bông tự nhiên và kéo giá đi lên.

Giá đường 11 tăng 1,56% khi thị trường đón nhận tín hiệu kém khả quan về triển vọng mùa vụ tại Brazil. Công ty Sucden đã hạ dự báo sản lượng đường niên vụ 24/25 tại khu vực Trung Nam, vùng sản xuất đường trọng điểm của Brazil xuống 40,8 triệu tấn, giảm 1,8 triệu tấn so với niên vụ trước. Lượng mưa thưa thớt tại khu vực này trong 3 tháng qua là nguyên nhân khiến cho nguồn cung đường có thể thu hẹp.

Giá dầu cọ tăng 0,55% trong bối cảnh xuất khẩu đi xuống. Nhà khảo sát Intertek testing Services biết, xuất khẩu các sản phẩm dầu cọ của Malaysia trong 25 ngày đầu tháng 2 ước giảm 10,7% so với cùng kỳ tháng trước, xuống 951.409 tấn.

Kim loại

Khép lại phiên giao dịch đầu tuần, sắc đỏ áp đảo trên bảng giá kim loại. Đối với kim loại quý, cả hai mặt hàng đều đóng cửa trong sắc đỏ do áp lực vĩ mô chèn ép. Giá bạc để mất 1,96%, dừng chân tại mức 22,73 USD/ounce. Giá bạch kim chốt phiên tại 881,1 USD/ounce sau khi giảm 3,13%.

Lo ngại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) giữ lãi suất cao lâu hơn so với kỳ vọng trước đây vẫn đang là yếu tố chính gây sức ép lên nhóm kim loại quý, mặt hàng nhạy cảm với lãi suất và biến động tiền tệ. Theo công cụ theo dõi lãi suất FedWatch của CME Group, khả năng hạ lãi suất vào tháng 3 và tháng 5 ngày càng bị hạ thấp và phần lớn kỳ vọng của thị trường hiện tập trung vào khả năng hạ lãi suất từ tháng 6, với xác suất khoảng 70%.

Hơn nữa, trong bối cảnh giá nhà ở và dịch vụ tiếp tục tăng cao, các nhà đầu tư lo ngại chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) của Mỹ được công bố tuần này sẽ tiếp tục tăng. Điều này có thể làm phức tạp thêm quyết định của FED và khiến dòng tiền rời khỏi thị trường kim loại quý. Cụ thể, theo dự báo, chỉ số PCE lõi tháng 1/2024 của Mỹ dự kiến tăng 0,4% so với tháng trước, cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với tháng 12/2023 và là mức cao nhất kể từ tháng 4/2023.

Đối với kim loại cơ bản, giá đồng COMEX nối tiếp đà giảm từ phiên cuối tuần trước, chốt phiên tại mức 3,83 USD/pound sau khi giảm 1,69%. Giá quặng sắt cũng để mất 3,84% về 115,43 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ cuối tháng 10/2023. Cả giá đồng và giá quặng sắt đều gặp áp lực trước triển vọng tiêu thụ kém sắc tại Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu.

Trang tin Shanghai Metals Market (SMM) cho biết các công trường xây dựng ở nhiều thành phố của Trung Quốc đã bị đình trệ do tình trạng mưa lớn và tuyết.

Hơn nữa, riêng với quặng sắt, dữ liệu từ công ty tư vấn Steelhome cho thấy tồn kho quặng sắt tại các cảng lớn tại Trung Quốc tiếp tục tăng lên, phản ánh nhu cầu chậm chạp. Cụ thể, tồn kho tại các cảng lớn của Trung Quốc đã tăng 2,1% so với tuần trước đó lên 133,1 triệu tấn trong tuần tính đến ngày 23/2, mức cao nhất kể từ tháng 4/2023.

Bên cạnh đó, những lo ngại về rủi ro nguồn cung giảm bớt cũng khiến giá gặp áp lực sau khi tăng hai phiên liên tiếp vào cuối tuần trước. Cơn bão đe dọa các cảng phía tây Australia hiện đang di chuyển ra khỏi khu vực này. Australia là nhà xuất khẩu quặng sắt lớn nhất thế giới và khu vực phía tây Australia là trung tâm khai thác quặng sắt quan trọng nhất của nước này.